- Bài báo/Newspaper
Tác giả : Wenbin Peng (2021) - Green innovation, which has spatial spillover effects, is a crucial way to accelerate the transformation and upgrading of urban economic structure, then to achieve sustainable development for the urban in China. Therefore, it is meaningful to study the effects of urban green innovation on economic development quality (EDQ). In this paper, using the panel data of 270 cities during 2005–2017 in China, we investigated spatial effect
and effect decomposition result of green innovation on EDQ by applying Spatial Durbin Model (SDM). The results
revealed that both green innovation and EDQ had demonstrated a trend of regional agglomeration and fluctuating development; the coefficient of dir...
|
- Bài báo/Newspaper
Tác giả : Morris Goldstein (1978) - Supply relationships have typically been handled by assumption, the usual practice being to assume that the export and import supply price elasticities facing any individual
country are infinite. While the assumption of an infinite price elasticity seems reasonable a priori in the case of the world supply of imports to a single country, this assumption carries far less intuitive appeal when applied to the supply of exports of an individual country
|
- Bài báo/Newspaper
Tác giả : Nguyễn Như Bình (2016) - Tìm hiểu những vấn đề cơ bản của chính sách thương mại của Hoa Kỳ liên quan đến những về kinh tế, chính trị, qua đó cho thấy mặc dù chủ nghĩa bảo hộ vẫn còn mạnh mẽ nhưng tự do hóa đang là xu hướng chủ đạo trong chính sách thương mại của Hoa Kỳ. Việt Nam thu được những lợi ích to lớn trong quan hệ thương mại với Hoa Kỳ và phát triển thương mại với Hoa Kỳ là tiền đề để Việt Nam cất cánh trở thành nước công nghiệp hiện đại
|
- -
Tác giả : Morrissett, I. (1953) - -
|
- Bài báo/Newspaper
Tác giả : Polak. J. J. (1950) - The elasticity of export supply, as can be seen, is an increasing function of each of three
variables: the elasticity of supply of the ex ported goods, the proportion of potential ex ports consumed domestically, and the elasticity of the domestic demand for these potential ex ports. Certain of the results in the text, again, are stated in terms of one or more of these components separately, to the exclusion of the resultant, ex. As in the demand case, the math ematical development is simpler if e, be used
alone and the components regarded as acting through this one term. There is no substantive difference between the two treatments, and similar relationships can be derived on ...
|
- Bài báo/Newspaper
Tác giả : James E. Anderson (1979) - Probably the most successful empirical trade device of the last twenty-five years is the gravity equation. Applied to a wide variety of goods and factors moving over regional and national borders under dif fering circumstances, it usually produces a good fit. Unfortunately, as is widely recog nized, its use for policy is severely ham pered by its "unidentified" properties. Insertion into the equation of policy in struments such as border taxes has no theoretical justification; and inference about the effect of taxes from examining changes in the equation over times when taxes have changed carries no guarantee of validity
|
- Bài báo/Newspaper
Tác giả : Morris Goldstein (1978) - In the relatively few cases where a supply function for exports has actually been speci fied,2 it has usually not been possible to obtain an estimate of the supply price elasticity either because the relevant structural parameters could not be recaptured from the reduced-form estimating equation, or because the structural
supply equation itself did not posit a direct relationship between the quantity of exports supplied and export prices.3 For example, the recent study by Amano (1974) on the export behavior of ten industrial countries contains explicit export demand and export supply functions but the over-identified nature of that model prevents one from obtaining estimates...
|
- Bài báo/Newspaper
Tác giả : James E. Anderson (1979) - The intent of this paper is to provide a theoretical explanation for the gravity equation applied to commodities. It uses the properties of expenditure systems with a maintained hypothesis of identical homo thetic preferences across regions. Products are differentiated by place of origin (for
a justification, see Peter Isard). The gravity model constrains the pure expenditure sys tem by specifying that the share of na tional expenditure accounted for by spend ing on tradeables (openness to trade) is a
stable unidentified reduced-form function of income and population.
|
- Bài báo/Newspaper
Tác giả : Vũ Thị Hạnh (2022) - -
|
- Bài báo/Newspaper
Tác giả : Vũ Kim Dung (2021) - Bài viết nghiên cứu mức độ ảnh hưởng của 6 nhân tố tới mức độ tận dụng cơ chế ưu đãi từ các hiệp định thương mại tự do FTA của Việt Nam.
|
- Bài báo/Newspaper
Tác giả : Lê Thị Hiên (2020) - Bài viết này phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng áp dụng phương pháp tính giá dựa trên hoạt động (ABC) tại các doanh nghiệp sản xuất gạch ốp lát ở Việt Nam. Tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng, với dữ liệu sơ cấp được thu thập thông qua khảo sát các doanh nghiệp sản xuất gạch ốp lát tại Việt Nam dựa trên bảng hỏi.
|
- Bài báo/Newspaper
Tác giả : Trần Trọng Huy (2020) - Tại Việt Nam, thương mại điện tử (TMĐT) đang phát triển rất mạnh mẽ trong thời gian gần đây. Tuy nhiên, lĩnh vực này cũng đang gặp phải những trở ngại nhất định, đặc biệt là hành vi tiêu dùng trên môi trường trực tuyến. Để kiểm chứng nhận định này, bài viết xem xét những nhân tố ảnh hưởng đến hành vi tiêu dùng trong lĩnh vực TMĐT tại Việt Nam. Nghiên cứu sử dụng phương pháp định lượng với số lượng mẫu khảo sát là 317. Qua phân tích mô hình cấu trúc tuyến tính (SEM), kết quả nghiên cứu cho thấy các nhân tố như: sự hữu ích của TMĐT, cơ sở hạ tầng, sự dễ sử dụng, chất lượng và rủi ro trong TMĐT có ảnh hưởng đến thái độ và hành vi tiêu dùng trực tuyến của khách hàng
|
- Bài báo/Newspaper
Tác giả : Nguyễn Đình Thanh (2021) - Hành vi lựa chọn điểm đến du lịch là một trong những vấn đề cốt lõi và quan trọng của hành vi tiêu dùng du lịch. Trong những năm gần đây, du lịch xanh đã trở thành chủ đề thu hútsự quan tâm của khách du lịch. Bài viết xác định những yếu tố ảnh hưởng tới hành vi lựa chọn du lịch xanh nhằm có những giải pháp phù
hợp thúc đẩy tiêu dùng xanh trong du lịch đáp
|
- Bài báo/Newspaper
Tác giả : Đỗ Hương Giang (2022) - Vấn đề việc làm đã trở thành một chủ đề cấp thiết, đặc biệt là trong bối cảnh dịch COVID-19. Tuy nhiên, ở Việt Nam vấn đề này vẫn chưa có hướng giải quyết triệt để. Bài viết nhằm phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến cơ hội việc làm của sinh viên mới ra trường trong thời kỳ COVID-19 trên địa bàn thành phố Hà Nội
|
- Bài báo/Newspaper
Tác giả : Hoàng Xuân Bình (2020) - Hợp tác giữa các trường đại học với doanh nghiệp đã nhận được sự chú ý ngày càng tăng trong thực tiễn quản lý và nghiên cứu. Sự cần thiết phải đổi mới, nghiên cứu các thay đổi trong môi trường kinh doanh cũng như tham vọng của các nhà hoạch định chính sách nhằm thương mại hóa các kiến thức hàn lâm góp phần tăng cường xu hướng này. Liên kết doanh nghiệp - đại học thành công là mối quan hệ đối tác cùng có lợi, trong đó vai trò của quốc tế hóa giáo dục đại học sẽ giúp cải thiện năng lực của các trường đại học, của các nghiên cứu dựa trên chính nhu cầu của doanh nghiệp
|
- Bài báo/Newspaper
Tác giả : Bùi Thị Quỳnh Trang (2020) - Tiêu chí phương thức và quy trình sản xuất (Processing and Production
Methods- PPMs) đóng vai trz rất quan trọng đối với quá trình xác định sản phẩm tương tự
trong các tranh chấp liên quan đến các chính sách công tác động đến thương mại quốc tế. Tuy nhiên, các Ban Hội thẩm và Cơ quan Phúc thẩm của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vẫn có những quan điểm khác nhau đối với việc áp dụng tiêu chí PPMs để xác định sản phẩm tương tự, vì không đủ điều kiện để được công nhận là một tiêu chí độc lập để xác định tính tương tự của sản phẩm
|
- Bài báo/Newspaper
Tác giả : Nguyễn Thị Bích Huệ (2020) - Kế toán quản lý chi phí dòng nguyên liệu (Material Flow Cost Accounting - MFCA) là một công cụ làm rõ chi phí chất thải và năng lượng trong quá trình sản xuất. MFCA khuyến khích doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên và năng lượng nên áp dụng MFCA, doanh nghiệp sẽ có thể đạt được song song cả hai mục tiêu là bảo vệ môi trường và kinh tế. Bài báo này nghiên cứu tình hình áp dụng MFCA tại hai doanh nghiệp của Việt Nam nhằm đánh giá quá trình và hiệu quả môi trường cũng như hiệu quả kinh tế
|
- Bài báo/Newspaper
Tác giả : Nguyễn Thị Hạnh (2021) - Nghiên cứu trình bày thực tiễn quá trình chuyển giao mô hình áp dụng các công cụ cải tiến Kaizen nhằm nâng cao năng suất tại các doanh nghiệp làng nghề (DNLN) thuộc khu vực phía Bắc Việt Nam. Với phương pháp thử nghiệm mô hình tại 60 doanh nghiệp (DN) sản xuất tại ba nhóm làng nghề, nghiên cứu đã chứng minh tính hiệu quả và cần thiết trong quá trình thúc đẩy tinh thần cải tiến, từ đó nâng cao năng suất và chất lượng tại DNLN. Do đó, nghiên cứu phân tích cụ thể hiệu quả của quá trình chuyển giao mô hình và đề xuất các giải pháp đối với nhà nước, nhà trường và DN nhằm nhân rộng áp dụng Kaizen cho các DN vừa và nhỏ nói chung và cho các DNLN nói riêng của Việt
|
- Bài báo/Newspaper
Tác giả : Nguyễn Thị Khánh Chi (2020) - : Nội dung bài viết phân tích cơ sở lý luận về tài sản thương hiệu và các yếu tố cấu thành tài sản thương hiệu dưới góc độ tiếp cận của khách hàng. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất mô hình lý thuyết về sự ảnh hưởng của các yếu tố tài sản thương hiệu hàng không đến lòng trung thành của khách hàng. Thông qua phân tích dữ liệu thu thập được từ 913 khách hàng đã sử dụng dịch vụ hàng không nhằm kiểm định mô hình cấu trúc tuyến tính. Kết quả nghiên cứu cho thấy nhận diện thương hiệu tác động trực tiếp đến lòng trung thành thương hiệu của khách hàng, trong khi đó, chất lượng cảm nhận và trải nghiệm lại có tác động gián tiếp.
|
- Bài báo/Newspaper
Tác giả : Nguyễn Đỗ Quyên (2020) - Bài viết hệ thống hóa cơ sở lý luận về các sáng kiến xanh trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, đồng thời phân tích và đánh giá ảnh hưởng của sáng kiến xanh đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Kết quả nghiên cứu cho thấy ứng dụng các sáng kiến xanh có ảnh hưởng tích cực đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp ở các lĩnh vực như hoạt động sản xuất, tài chính, marketing và môi trường. Cụ thể, các sáng kiến xanh góp phần giúp doanh nghiệp tiết kiệm chi phí hoạt động, bảo vệ môi trường và hệ sinh thái, thu hút khách hàng tiềm năng, củng cố sự trung thành của các khách hàng hiện hữu, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và giúp doanh nghiệp hướng tới mục tiêu...
|