- Article
Authors: Hoàng Thị Linh Ngọc; Nguyễn Thị Thanh Hòa; Lê Thị Hương (2021) - Nghiên cứu trên 374 sinh viên Y1 trường Đại học Y Hà Nội năm 2020 mô tả tình trạng dinh dưỡng và một số
yếu tố liên quan của sinh viên. Trong 374 trường hợp nghiên cứu, nam : 31,5%, nữ: 68,5%. Nhóm tuổi 18 chiếm
97,3% và nhóm trên 18 tuổi chiếm 2,7%. Tình trạng dinh dưỡng đo lường thông qua chỉ số khối cơ thể (Body
Mass Index- BMI). Mô hình hồi quy logistic sử dụng để đánh giá mối liên quan giữa tình trạng dinh dưỡng và một
số yếu tố. Kết quả cho thấy 6,7 % sinh viên thừa cân-béo phì: 16,1% ở nam; 2,3% ở nữ. Tỷ lệ thiếu năng lượng
trường diễn là 31,0% :19,5% ở nam và 36,3% ở nữ, chủ yếu là thiếu năng lượng trường diễn độ 1 (68,9%).
Nghiên cứu cho thấy yếu tố giới, hoạt động thể lực và yếu tố tự đánh giá tình trạng dinh dưỡng bản thân của sinh
viên và tình trạng dinh dư...
|
- Article
Authors: Vũ Hoàng Oanh; Dương Thị Phượng; Lê Thị Hương (2021) - Nhịn đói qua đêm trước phẫu thuật nhằm tránh biến chứng hít sặc phổi, tuy nhiên gây ra khó chịu cho người
bệnh. Hiệp hội Tăng Cường Phục Hồi Sau Phẫu Thuật (ERAS) và Hiệp Hội Gây Mê Châu Âu (ESA) đã khẳng
định sử dụng carbohydrate đường uống trước phẫu thuật 2 giờ là an toàn và cải thiện cảm giác khó chịu liên
quan phẫu thuật của người bệnh. Chúng tôi tiến hành thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng trên 40
bệnh nhân phẫu thuật cắt túi mật nội soi. Nhóm can thiệp được uống 200ml dung dịch maltodextrin 12,5% trước
phẫu thuật 2 - 4 giờ. Nhóm chứng nhịn ăn uống từ 22 giờ ngày hôm trước phẫu thuật. Đánh giá tỉ lệ hít sặc phổi,
thể dịch dịch tồn dư dạ dày trước phẫu thuật, cảm giác đói, khát, khô miệng, đau tại các thời điểm: lúc nhập
viện, trước phẫu thuật, sau phẫu t...
|
- Article
Authors: Trinh Bảo Ngọc; Nguyễn Thị Như Quỳnh; Nguyễn Thị Thu Liễu (2021) - Một nghiên cứu mô tả cắt ngang được tiến hành trên 200 trẻ em dưới 24 tháng tuổi đến khám tại Trung tâm Kiểm
soát Bệnh tật tỉnh Bắc Giang. Mục tiêu của nghiên cứu này là đánh giá một số yếu tố liên quan tới tình trạng dinh
dưỡng của trẻ dưới 24 tháng tuổi đến khám tại Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh Bắc Giang năm 2020. Kết quả của
nghiên cứu này cho thấy: Tỷ lệ Suy dinh dưỡng của trẻ dưới 24 tháng tuổi cao ở cả 3 chỉ số, trong đó suy dinh dưỡng
thể nhẹ cân là 10,5% (cân nặng/tuổi), thể thấp còi 22,5% (chiều cao/tuổi) và thể gầy còm 6,5% (cân nặng/chiều cao).
Thời gian cai sữa của bà mẹ là yếu tố liên quan có ý nghĩa thống kê đến tình trạng dinh dưỡng thể thấp còi của trẻ
|
- Article
Authors: Nguyễn Thành Tiến; Phan Thị Bích Hạnh; Nguyễn Ngọc Thu (2021) - Nghiên cứu nhằm mô tả tình trạng dinh dưỡng và một số yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dưỡng của
bệnh nhân gút tại Bệnh viện Đa khoa Xanh Pôn. Nghiên cứu mô tả cắt ngang thực hiện trên 73 đối tượng trên
18 tuổi được chấn đoán mắc bệnh gút theo tiêu chuẩn ACR/EULAR 2015 (Hội Thấp khớp học Hoa Kì và Liên
đoàn phòng chống thấp khớp Châu Âu), trong thời gian từ tháng 12 năm 2020 đến tháng 3 năm 2021. Kết quả
nghiên cứu cho thấy có 5,5% bệnh nhân có tình trạng thiếu năng lượng trường diễn (BMI - chỉ số khối cơ thể
< 18,5), 53,4% bệnh nhân có tình trạng thừa cân/béo phì (BMI ≥ 23). Những đối tượng mắc bệnh mạn tính
không lây đi kèm có nguy cơ thừa cân/béo phì cao hơn so với những đối tượng không mắc bệnh (OR = 7,4).
Khi đánh giá theo phương pháp SGA, có 15,0% người bệnh ...
|
- Article
Authors: Nguyễn Thị Thuý; Lê Thị Hương; Nguyễn Thị Thanh (2021) - Ung thư dạ dày là một trong các bệnh lí ung thư phổ biến nhất trên thế giới. Đây cũng là bệnh ung thư
mà người bệnh có tỉ lệ giảm cân và được chẩn đoán suy dinh dưỡng cao. Với mục đích đánh giá thay đổi
tình trạng dinh dưỡng của người bệnhung thư dạ dày trong quá trình điều trị hoá chất, chúng tôi thực hiện
nghiên cứu trên 50 người bệnh ung thư dạ dày trong độ tuổi trưởng thành, đã điều trị phẫu thuật triệt căn
và được tiến hành điều trị hoá chất theo phác đồ XELOX, theo dõi và đánh giá các chỉ số: cân nặng, BMI,
PG-SGA, hồng cầu, hemoglobin. Kết quả nghiên cứu cho thấy: trước khi điều trị hoá chất 48% người bệnh
có suy dinh dưỡng theo BMI, 94% người bệnh có nguy cơ suy dinh dưỡng theo PG-SGA, trong quá trình
điều trị cân nặng trung bình giảm từ 47,5 kg còn 46,6 kg, BM...
|
- Article
Authors: Lê Thị Phương Thuý; Nguyễn Phương Thảo; Đinh Trọng Hiếu; Phạm Việt Tuân; Nguyễn Quang Dũng (2021) - Người bệnh thở máy tại các khoa hồi sức tích cực có nguy cơ cao bị suy dinh dưỡng, tử vong. Nghiên
cứu cắt ngang được tiến hành nhằm đánh giá nguy cơ suy dinh dưỡng cho người bệnh thở máy. Tổng số
40 người từ 42 - 94 tuổi điều trị thở máy tại bệnh viện đa khoa Đống Đa được chọn tham gia nghiên cứu.
Các thông số nhân trắc, lâm sàng, cận lâm sàng như hemoglobin, protein và albumin huyết thanh được thu
thập. Sử dụng điểm Nutric hiệu chỉnh và các chỉ tiêu cận lâm sàng để đánh giá nguy cơ suy dinh dưỡng.
Tỷ lệ nguy cơ theo điểm Nutric hiệu chỉnh là 50%. Tại thời điểm ngày đầu nhập ICU, nồng độ hemoglobin
là 118,4 ± 30,2 g/L, nồng độ protein huyết thanh là 61,9 ± 7,5 g/L, albumin huyết thanh là 30,5 ± 5,5. Tỷ
lệ thiếu máu là 60%, tỷ lệ suy dinh dưỡng theo protein là 47,5%, t...
|
- Article
Authors: Vũ Văn Quyết; Phạm Duy Quang; Nguyễn Thuỳ Linh; Trịnh Bảo Ngọc (2021) - Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 463 nữ công nhân từ 18-35 tuổi một công ty thuộc khu công nghiệp
Lương Sơn, tỉnh Hoà Bình bằng cân đo nhân trắc và lấy máu xét nghiệm cho thấy tỉ lệ thiếu năng lượng
trường diễn, thừa cân-béo phì lần lượt 19,9% và 6,7%, tỉ lệ ferritin huyết thanh dưới ngưỡng là 12,7%, tỉ lệ
giảm sắt huyết thanh là 5,2%, tỉ lệ thiếu máu, thiếu máu do thiếu sắt lần lượt 29,2% và 7,3%, tỉ lệ thiếu kẽm
là 67,6% và thiếu canxi huyết thanh là 11,7%. Qua đó cho thấy hiện có gánh nặng kép về tình trạng dinh
dưỡng khi thiếu năng lượng trường diễn tồn tại đồng thời với thừa cân-béo phì. Tình trạng thiếu vi chất dinh
dưỡng còn cao và cần có biện pháp can thiệp để cải thiện tình trạng dinh dưỡng và vi chất cho nữ công nhân
|
- Article
Authors: Ngô Quỳnh Trang; Phạm Văn Phú (2021) - Hiện nay viêm gan B và C mạn đã và đang là vấn đề sức khỏe cộng đồng rất lớn ở nước ta cũng như thế giới.
Tỷ lệ suy dinh dưỡng (SDD) ở người bệnh mắc bệnh gan mạn có thể từ 65-90% theo các phương pháp đánh giá
khác nhau. Người bệnh thường bị giảm khẩu phần ăn do nhiều nguyên nhân. Nghiên cứu mô tả cắt ngang được
thực hiện nhằm đánh giá tình trạng dinh dưỡng (TTDD) và khẩu phẩn 24h của 166 người bệnh mắc bệnh viêm
gan B,C mạn tại Khoa viêm gan - Bệnh viện Bệnh nhiệt đới trung ương. Kết quả cho thấy tỷ lệ suy dinh dưỡng theo
SGA là 38,6%. Nhóm người bệnh cao tuổi (≥ 65 tuổi) có tỷ lệ suy dinh dưỡng cao hơn so với nhóm người bệnh <
65 tuổi (57,1% và 33,6%). Nhóm người bệnh xơ gan (XG) mất bù có tỷ lệ suy dinh dưỡng cao nhất, sau đó là nhóm
XG còn bù và thấp nhấp là nhóm c...
|
- Article
Authors: Lê Hồng Quang; Lê Thị Hương; Lê Thị Hương (2021) - Một nghiên cứu mô tả cắt ngang điều tra trên 420 người chế biến thực phẩm tại bếp ăn bán trú tất cả
các trường học trên địa bàn thành phố Thanh Hóa về thực hành an toàn vệ sinh thực phẩm. Kết quả nghiên
cứu cho thấy: Tỷ lệ người chế biến thực phẩm (CBTP) đạt yêu cầu thực hành chung về an toàn vệ sinh thực
phẩm là 71,4%. Trong đó, về thực hành vệ sinh cá nhân: 97,9% người chế biến thực phẩm để móng tay
sạch sẽ, cắt ngắn, tỉ lệ người sử dụng mũ chụp tóc, khẩu trang, tạp dề lần lượt với 81,7%; 76,4%; 82,6%.
Có 13,3% người chế biến thực phẩm vẫn dùng tay trực tiếp để bốc chia thức ăn chín. Về thực hành bảo
quản thực phẩm (BQTP): trên 90% dụng cụ chứa đựng thực phẩm không thôi nhiễm, không thủng, không
gỉ sét và có nắp đậy kín, dễ chùi rửa, trên 90% kho thực phẩm chắc chắn,...
|
- Article
Authors: Trinh Bảo Ngọc; Nguyễn Thị Như Quỳnh; Nguyễn Thị Thu Liễu (2021) - Một nghiên cứu mô tả cắt ngang được tiến hành trên 200 trẻ em dưới 24 tháng tuổi đến khám tại Trung tâm Kiểm
soát Bệnh tật tỉnh Bắc Giang. Mục tiêu của nghiên cứu này là đánh giá một số yếu tố liên quan tới tình trạng dinh
dưỡng của trẻ dưới 24 tháng tuổi đến khám tại Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh Bắc Giang năm 2020. Kết quả của
nghiên cứu này cho thấy: Tỷ lệ Suy dinh dưỡng của trẻ dưới 24 tháng tuổi cao ở cả 3 chỉ số, trong đó suy dinh dưỡng
thể nhẹ cân là 10,5% (cân nặng/tuổi), thể thấp còi 22,5% (chiều cao/tuổi) và thể gầy còm 6,5% (cân nặng/chiều cao).
Thời gian cai sữa của bà mẹ là yếu tố liên quan có ý nghĩa thống kê đến tình trạng dinh dưỡng thể thấp còi của trẻ
|